I. GIÁ TRỊ KINH TẾ, NGUỒN GỐC PHÂN BỐ
1. Giá trị kinh tế:
Trong các loại cây nhiệt đới và á nhiệt đới, bơ đứng vào bảng thứ 5
theo thống kê của FAO (1977). Tổng sản lượng thế giới hiện nay là 5
triệu tấn, tập trung ở các nước châu Mỹ về mặt tiêu thụ, các nước phát
triển có nhu cầu ngày càng tăng đối với mặt hàng ngày càng quen thuộc
này.
Thành phần dinh dưỡng của trái bơ cao hơn nhiều loại cây khác, nhất
là về mặt calo, protein, các chất muối khoáng; bơ là thực phẩm lý tưởng
cho người bị bệnh tiểu đường. Hàm lượng các chất dầu thực vật trong quả
bơ rất cao (3-30%) và cơ thể con người có thể hấp thụ đến 92,8%.
So sánh một số trái cây về mặt chất lượng (trong 100g phần ăn được).
Loại trái cây | Calo | Nước | Prôtêin | Lipid | Đường | Vitamin B1 | Vitamin C | Phospho | Cali |
Bơ | 102 | 79 | 1.1 | 6.1 | 13.2 | 0.05 | 8 | 38 | 12 |
Xoài | 70 | 79.9 | 0.9 | 0.1 | 18.5 | 0.01 | 13 | 4 | |
Đu Đủ | 45 | 87.1 | 0.5 | 0.1 | 11.8 | 0.03 | 73 | 24 | |
Cam | 40 | 88.6 | 0.8 | 0.2 | 9.9 | 0.07 | 43 | 23 | 21 |
Mặc dù thành phần dinh dưỡng của trái bơ rất cao so với nhiều loại
trái cây khác, nhưng do mới phát triển trong thời gian gần đây, nên sản
lượng bơ chưa cao, năng suất bình quân chỉ đạt 4-10 tấn, ngay cả những
vườn cây thâm canh ở California.
2. Nguồn gốc phân bố, phân loại:
Đa số các giống bơ đều xuất xứ từ các vùng nhiệt đới Trung Mỹ như
Mexico, Guatemala và quần đảo Antilles. Trong những xứ này, người ta
thường phát hiện những cây bơ mọc hoang dại.
Bơ gồm rất nhiều giống thuộc họ Lauraceae. Phần lớn các giống có tính
cách thương mại đều thuộc vào 3 chủng: chủng Mexico, chủng Guatemala và
chủng Antilles hay West Indian.
Chủng Guatemala và West indian (Antilles) được xếp vào loài Persea americana Mill.
Chủng Mexico được xếp vào loài Persea drymyfolia.
Đặc tính của 3 chủng loại bơ quan trọng:
- Chủng Mexico: Có lá thay đổi nhiều về kích thước, lá có màu xanh
lục, mặt dưới nhạt hơn mặt trên, đặc biệt khi vò lá ngửi có mùi hôi
anique. Trái thường dài dạng quả lê, dạng đu đủ. Chất lượng rất tốt do
hàm lượng chất béo rất cao: 15-30% (trên thị trường gọi là bơ sáp). vỏ
trái mỏng, thường trơn tru, khi chín có màu xanh, vàng xanh, hay đỏ tím,
đỏ sẫm tùy giống. hạt hơi lớn, vỏ hạt mỏng, mặt ngoài hạt trơn láng,
khi chín hạt nằm lỏng trong lòng quả nhưng lắc không kêu. Thời gian từ
khi ra hoa đến lúc trái chín thường từ 8-9 tháng. Đây là chủng bơ có
chất lượng cao nhất và có đặc tính chịu rét tốt nhất.
- Chủng Guatemala: có lá màu xanh sẫm hơn chủng mexico và chủng
Antilles, khi vò lá không có mùi hôi. Đọt non màu đỏ tối. Thời gian từ
lúc trổ hoa đến lúc trái chín thường từ 9-12 tháng. Trái nhiều cuống
trái dài, vỏ hơi dày và có sớ gỗ. Da thường sần sùi như da cá sấu. Hạt
nhỏ và nằm sát trong lòng quả. Thịt quả dày cơm, có hàm lượng dầu béo
10-15%. Mặt ngoài hạt láng hoặc trơn láng. Chủng này có sức chống chịu
rét khá tốt.
- Chủng Antilles hoặc West Indian: có lá to, lá thường có màu sắc gần
như đồng đều ở hai mặt lá; khi vò nát lá, ngửi không thấy mùi vị gì cả.
Thời gian từ lúc trổ hoa đến lúc trái chín thường từ 6-9 tháng. Trái
thường to, có trái rất to. Cuống trái ngắn. Vỏ trái hơi ngắn và dai, dày
trung bình 0,8-1,5 mm. Da trái có màu xanh và khi chín thì đổi sang màu
xanh hơi vàng. Thịt quả có hàm lượng dầu 3-10%. Hạt khá lớn và nằm lỏng
trong lòng quả, khi chín lắc qua nghe tiếng kêu. Mặt ngoài của hạt sần
sùi, vỏ bao quanh hạt không dính liền với hạt. Chủng Antilles chịu rét
yếu nhưng chịu nóng và chịu mặn (3% trong nước tưới).
ĐẶC ĐIỂM PHÂN BIỆT 3 LOẠI BƠ:
Chủng bơ | Màu lá | Cở trái | Vỏ trái | Dầu trong cơm | Hạt | Khoảng rỗng hạt | Chụi rét | Ưu điểm chung |
Mexico | Mùi hôi Anique | Nhỏ | Mỏng 0.8mm | Cao | To | Lỏng không sát thịt | Tốt | Chịu rét chất lượng tốt |
Guatemala | Không hôi | Nhỏ lớn đều có | Dày từ 1.5-1.8mm | Trung bình | Nhỏ | Dính chặt vào cơm | Khá tốt | Chịu rét khá tốt |
Antilles | Không hôi | Rất lớn và nhỏ | Trung bình 0.8-1.5mm | Thấp | To | Lỏng, khi chín lắc kêu | Yếu | Chịu nóng chịu mặn |
- Hiện nay trên thị trường đẵ xuất hiện1 giống bơ có tên Booth mới ,
nguồn gốc từ Mỹ được nghiện cứu và tiến hành khảo nghiệm từ Cty TNHH Tư
vấn đầu tư phát triển nông lâm nghiệp EaKmát (Viện KHKTNLN Tây Nguyên)
Ưu điểm nổi trội của bơ Booth là hàm lượng chất béo cao, đạt 15% so
với 5% ở giống bơ nước và dưới 10% ở giống bơ địa phương, có hương vị
thơm ngon. Ngoài ra, trái bơ có vỏ dày, thời gian bảo quản có thể kéo
dài trên 10 ngày, đáp ứng yêu cầu cho xuất khẩu. Đặc biệt thời vụ thu
hoạch bơ Booth vào tháng 10 – tháng 11, muộn hơn so với các giống bơ địa
phương trên 2 tháng.
Căn cứ vào các đặc điểm trên, có thể nghi nhận các vùng phân bố của các chủng bơ ở Việt Nam cụ thể Đà Lạt-Lâm Đồng như sau:
- Vùng Đà Lạt: hiện diện chủ yếu các giống thuộc chủng Mexico do đặc
điểm chịu rét rất giỏi của nó, bên cạnh đó còn phát hiện các giống thuộc
chủng Guatemala, nhưng chủng này chiếm tỷ lệ rất ít.
- Vùng Đức Trọng, Đơn Dương, Bảo Lộc: trong các huyện này, chủng Antilles chiếm tỷ lệ cao nhất so với các chủng khác.
- Vùng Di Linh: được xem là vùng phân bố chủng Guatemala.
- Vùng chuyên canh bơ Tây Nguyên: tại tỉnh ĐăkLăk có khoảng 80.000
người trồng bơ với diện tích đạt gần 2.700ha, sản lượng hàng năm bán ra
thị trường hơn 40.000 tấn.
Bơ rất dễ trồng, gần như không cần phải bón phân và để công chăm sóc.
Cây trồng khoang 3-4 năm đã cho quả bói. Vụ bơ chính bắt đầu từ tháng
5-9, bình quân mỗi cây có thể cho từ 100-150 kg quả, với giá khoảng
3000đ/kg thì mỗi ha bơ ( 150 cây) có thể cho thu nhập không dưới 45
triệu đồng. Thực tế ở Tây Nguyên bơ chỉ là một thứ cây trồng “tay trái”,
nguyên nhân do đầu ra của sản phẩm hạn hẹp, không được quảng bá.
Song những năm gần đây, trái bơ Tây Nguyên đã có mặt tại các chợ ,
siêu thị trong cả nước, và còn xuất khấu sang Trung Quốc, khiến nông dân
một số nơi đã nhìn nhận lại giá trị của loại trái cây này.
Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã tạo được một tập
đoàn 57 giống bơ mới tuyển chọn từ những cây đầu dòng trong nước và 12
giống nhập ngoại. Bà con nên mua những giống bơ mới này để trồng.
II. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT VÀ SINH LÝ
1. Đặc điểm thực vật:
Cây to được xếp vào loại cây xanh lá quanh năm, nhưng vài giống có
tính rụng lá một phần hoặc rụng hết khi cây trổ hoa, những đặc tính này
chỉ có tính cách tạm thời vì sau đó chồi non lại phát sinh ngay. Trên đa
số giống lá già chỉ rụng dần trong một thời gian khá dài vào mùa xuân
nên cây lúc nào cũng xanh lá.
Lá lúc còn non thường có lông mịn, màu hơi đỏ hoặc màu đồng nhưng đến
khi trưởng thành, lá có màu xanh láng và dài. Chiều dài lá rất thay đổi
từ hình thuẫn đến hình dao. Chóp lá thường bén nhọn nhưng có vài giống
chóp lá hơi tròn. Mùi vị của lá thường chỉ đặc trưng cho loài Persea
drymifolia Cham.et Schect. Khi vò ngửi có mùi hôi.
Hoa có màu xanh nhạt, hoặc xanh vàng, thường phát sinh thành chùm
trên đoạn cuối cánh quả. Khi hoa nở, hoa có đường kính 12-14mm. Hoa có
12 nhị, nhưng chỉ có 9 nhị hoạt động, mỗi nhị mang 4 túi phấn. Hoa chỉ
có một nhụy và một tâm bì chứa một tiểu noãn. Đa số các bộ phận của hoa
có lông mịn.
Quả bơ có trọng lượng và hình dáng khác nhau tùy giống: tròn, trứng,
quả lê, thuỗn… Trọng lượng thay đổi từ 60-150g, có giống quả rất to nặng
đến 1,5 kg. Trên thương trường những giống quả bé hoặc quá lớn đều ít
được ưa chuộng.
Quả có ba phần rõ rệt: vỏ thịt và hạt. Bề dày và cấu tạo của vỏ thay
đổi tùy giống. Quả của những giống thuộc chủng Mexico thường có vỏ mỏng
và láng, chủng Guatemala và Antilles thường có vỏ dày hơn. Có giống quả
vỏ sần sùi, có giống vỏ láng và đôi khi có sớ gỗ. Màu sắc của vỏ quả
biến động từ màu xanh sáng, màu xanh nhạt, xanh vàng, hoặc tím đến tím
sẫm khi quả chín.
Thịt quả thường có màu vàng kem, vàng bơ, hoặc màu vàng sáng, có
giống cho thịt quả có màu vàng xanh ở sát phần vỏ quả. Thịt quả có hàm
lượng dầu béo rất cao so với các loại quả khác.
Hạt được 2 lớp vỏ lụa bao bọc, gồm có hai tử diệp hình bán cầu. Giữa
hai tử diệp có phôi hạt nằm về phía cuống quả, và khi hạt nẩy mầm, cây
mầm sẽ mọc thẳng từ dưới lên theo trục thẳng đứng của hạt. Mặt ngoài tử
diệp (nội nhũ) trơn láng hoặc sần sùi tùy theo giống và hình dạng cũng
biến động khá nhiều.
Tỷ lệ giữa vỏ, thịt và hạt của quả cũng tùy thuộc nhiều vào giống;
chẳng hạn như ở giống Lula, hạt chiếm đến 25% trọng lượng quả.
2. Đặc điểm sinh lý của hoa bơ:
Mặc dù hoa mang tính chất lưỡng tính, nhưng đặc điểm thụ phấn tùy
thuộc vào hoạt động sinh lý của nhị và nhụy. Qua nhiều nghiên cứu hiện
tượng nở hoa và thụ phấn được J.A.Samson (1980) quan sát ghi nhận sự thụ
phấn của hoa bơ mang tính tạp giao. Căn cứ vào thời gian hoạt động của
nhị và nhụy, các tác giả đã chia bơ ra thành 2 nhóm:
- Nhóm A: hoa nở lần 1 vào buổi sáng; nhụy chín nhưng nhị chưa tung
phấn; tiếp theo đó là thời kỳ hoa cụp lại; hoa nở lần 2 vào buổi trưa
ngày hôm sau; nhị chín tung phấn nhưng nhụy không còn khả năng thụ phấn
nữa.
Khoảng cách thời gian giữa 2 lần nở hoa của một hoa kéo dài trên 24 giờ.
- Nhóm B: có đặc điểm nở hoa ngược lại: hoa nở một lần vào buổi
chiều; nhụy chín sẵn sàng đón phấn; tiếp theo đó là thời gian hoa cụp
lại khoảng dưới 24 giờ; hoa nở lần 2 vào buổi sáng hôm sau; nhị chín và
tung phấn.
Như thế hai nhóm A và B có đặc tính bổ sung sự thụ phấn cho nhau để
cây đậu quả tốt. Nghiên cứu và ứng dụng tập tính nở hoa của các giống là
yếu tố quyết định việc trồng bơ có hiệu quả kinh tế.
Hiện tại chưa có đủ tài liệu để phân loại giống, nhưng vài tác giả đã phân chia một số giống như sau:
- Nhóm A: gồm các giống: Mexicola, Puebla, Jalna, Gottfried, Taylor,
Queen, Dickinson, Waldin, Simmonds, Collinson, Wagner, Taft, Lula,
Dunedin….
- Nhóm B: gồm các giống: Wilslowson, Nabal, Pollock, Trap, Fuerte, Mc Donald, Schmidt, Tonnage, Linda, Hardy…
Trong đó một số giống có khả năng tự thụ phấn gồm: Hass, Trap, Lula,
Waldin, Taylor, Fuerte, nhưng trồng riêng rẽ những giống này thường
không thể cho năng suất cao được.
III. ĐẶC TÍNH SINH THÁI CỦA CÂY BƠ
Cây bơ có rất nhiều giống thuộc các chủng khác nhau nên không thể nêu nên đặc điểm sinh thái nói chung.
1. Về nhiệt độ: Như đã trình bày, cây bơ có nguồn gốc ở các xứ nhiệt
đới Trung Mỹ, phân bố ở độ cao dưới 1.000 – 2.700 m. Ở đây các giống
thuộc chủng Guatemala, Mexico có thể chịu được nhiệt độ từ -20o đến
-60oC, các giống Antilles chỉ chịu được nhiệt độ khoảng 0oC.
Tại Đà Lạt, nhiệt độ tuyệt đối thấp rất hiếm khi đạt mức 0-10oC, nên
các giống Antilles kém chịu rét nhất cũng chịu được, do đó vấn đề nhiệt
độ thấp đối với cây bơ không quan trọng lắm. Vấn đề đặt ra là ảnh hưởng
của nhiệt độ quá cao đối với sự chống chịu của giống và vấn đề phẩm chất
biểu hiện ở hàm lượng dầu trong quả.
Như thế mỗi giống có yêu cầu về nhiệt độ khác nhau. Chẳng hạn như
giống Booth 7 bắt đầu rụng trái khi nhiệt độ xuống đến 3oC. Tuy nhiên,
người ta tạm chia các giống bơ ra thành 5 nhóm căn cứ vào sức kháng lạnh
như sau:
- Nhóm chịu lạnh rất giỏi: có Lula, Taylor…
- Nhóm chịu lạnh giỏi: có Nabal, Hall, Tonnage…
- Nhóm chịu lạnh khá: Booth 8, Monroe, Wagner, Choquette…
- Nhóm chịu lạnh kém: Booth 7, Waldin, Hickson, Collinson, linda…
- Nhóm chịu lạnh rất kém: Pollock, Trap…
2. Ẩm độ: lượng mưa tối thích cho cả năm là 1.000 – 1.500mm. Khi bơ
ra hoa, nếu gặp trời mưa dầm, ẩm độ không khí quá cao, hoa sẽ rụng
nhiều. Do đó, bơ cần có một mùa khô mát để ra hoa đậu quả tốt. Mưa nhiều
vào mùa quả chín cũng làm giảm chất lượng quả, hàm lượng dầu không cao.
3. Gió: Cây bơ có gỗ dòn, chống gió yếu nên vấn đề trồng cây che chắn
gió có tác dụng hạn chế đổ gãy đồng thời giảm tốc độ bốc thoát hơi nước
vào mùa ra quả (mùa khô) để cây không bị rụng trái. Gió còn làm trái cọ
sát lẫn nhau, cọ sát với lá, cành gây ra bệnh sinh lý làm giảm giá trị
trái bơ.
4. Đất đai: có thể trồng bơ trên nhiều loại đất khác nhau: đất sét
pha cát, đất pha sét, đất thịt nặng. Nhưng vấn đề đặc biệt cần lưu ý là
đất phải thông thoáng, dễ thoát nước, giầu chất hữu cơ. Lớp đất thông
thoáng thoát thủy phải sâu ít nhất là 90 cm. Đất có mạch nước ngầm thấp
sâu ít nhất là 2m, vì trong thời kỳ đầu sinh trưởng, rễ bơ ăn cạn, cây
vẫn phát triển tốt nhưng càng về sau, bộ rễ ăn càng sâu, gặp đất úng
thủy, rễ phát sinh nấm Phytophthora làm chết cây.
IV. Kỹ thuật trồng bơ
* Khoảng cách trồng: tuỳ theo chủng và giống đối với chủng Antilles
và những giống lai, có thể trồng ở khoảng cách khá thưa: 8x8m hoặc
10x10m.
* Vấn đề xen canh: vào những năm bắt đầu trồng bơ, khi cây bơ toả tán
chưa rộng, có thể trồng xen rau đậu nhưng không nên trồng cà chua,
khoai tây vì nấm Verticilium có thể lan truyền cho cây bơ.
* Biện pháp giữ ẩm: giai đoạn còn nhỏ, bộ rễ bơ ăn cạn, cho nên vấn
đề tưới giữ ẩm và phủ gốc là cần thiết để bơ không bị chết do nóng khô
vào mùa nắng; nhất là đối với những vườn bơ trồng bằng cây ghép. Tốt
nhất nên tưới phun và không nên tưới đẫm vào gốc.
* Bón phân: Tuỳ tuổi của cây giai đoạn cây còn nhỏ có thể bón theo
công thức N – P2O5 – K2O với tỷ lệ 1-1-1. Ở cây lớn nên tăng tỷ lệ K2O
và N lên theo tỷ lệ 2-1-2. Trước khi trồng và trong những năm đầu, nhất
thiết phải bón phân chuồng hoai 10-20 tấn/ha.
* Vấn đề tạo tán: Tiến hành từ nhỏ đối với những giống cây cao để tạo
dáng cây không cao quá 6m và cành toả đều về các phía. Việc cắt xén
cành khô, cành vượt cũng phải thực hiện sau mùa thu hoạch để giúp cây
sinh trưởng bình thường và ngăn ngừa không cho sâu bệnh lan tràn.
* Trồng cây chắn gió: thân cành bơ rất dòn, dễ gẫy, nên vấn đề trồng
cây chắn gió rất quan trọng. Thường dùng cây dương liễu: (Casuarina
equisetifolia) trồng dày cách hàng bơ bìa 6m để che gió và giúp cho đất
thêm nhiều chất dinh dưỡng.
PHÒNG TRỪSÂU BỆNH
1. Sâu: Trên bơ có nhiều loài sâu hại:
- Sâu cuốn lá (Gracilaria percicae Busk): bướm thường đẻ trứng trên
lá mới ra, trứng nở thành sâu và lớn dần lên theo lá, nhưng thông thường
nhất là sâu nhả tơ cuốn lá lại để làm tổ. Sâu dài khoảng 10mm, xanh và
có những lằn ngang không rõ rệt. Trưởng thành, sâu làm nhộng trong các
tổ lá, nằm yên 5-7 ngày rồi vũ hóa.
Dùng các loại thuốc trừ sâu nội hấp để phun diệt trừ. Nếu có điều
kiện, trước khi phun thuốc, nên gỡ bỏ các tổ lá do sâu cuốn lại để tăng
thêm hiệu lực của thuốc.
- Sâu cắn lá: có rất nhiều loài, có hai loài đã được định danh là
Seirarctia echo và Feltia subterrania F. Sâu ăn trụi lá làm chết cây con
và làm giảm sức tăng trưởng cây lớn. Có thể tìm thấy sâu trên lá, trên
cành hoặc vỏ thân cây. Ban ngày, sâu ẩn núp dưới gốc cây, đêm đến bò ra
phá hại.
- Rầy bông (Pseudococcus citri Risse): rầy thường xuất hiện vào mùa
mưa, chích hút nhựa lá và đọt non, quả non làm cây giảm sức tăng trưởng.
2. Bệnh: là đối tượng bảo vệ thực vật quan trọng trên cây bơ, gồm các bệnh hại sau:
- Bệnh thối rễ: do nấm Phytophthora cinnamoni gây ra, ở những chân
đất có thuỷ cấp cao, nấm xâm nhập làm hư rễ chính (rễ cọc), sau đó nấm
lan tràn phá huỷ cả bộ rễ làm cây chết rụi. Cây bị bệnh có tán lá xơ
xác, lá đổi sang mầu xanh nhạt rồi rụng. Cành chết dần từ ngọn xuống
thân chính.
Biện pháp phòng trừ:
- Chọn giống ghép và gốc ghép chống chịu bệnh. Không dùng hạt giống
bị nhiễm bệnh và vườn ươm giống phải tuân thủ các biện pháp phòng chống
bệnh phát sinh và lan tràn.
- Trồng bơ trên các loại đất có kết cấu tơi xốp, tầng đất canh tác đủ sâu, rút nước nhanh khi mưa.
- Tuyệt đối không dùng nước từ những vườn bơ bị bệnh để tưới.
- Phải tẩy uế nông cụ kỹ càng.
- Phát hiện kịp thời những vết thối trên thân, cạo sạch và quét
sulfate đồng – vôi đặc. Khi cây chết vì bệnh, nên đào và huỷ bỏ để bệnh
không lan tràn.
- Bệnh đốm lá (Cerocospora purpurea): bệnh hại lá và trái, nấm bệnh
xuất hiện rải rác trên lá có hình dạng và kích thước gần giống nhau,
hình có góc cạnh hoặc hơi tròn, mầu nâu. Những đốm này cũng có thể liên
kết lại với nhau thành những mảng. Trên trái bệnh tạo nên những mụt lồi
cỡ 5mm, có mầu nâu nhạt đến nâu đậm. Trái bị bệnh mất giá trị. Bệnh tồn
tại trên lá già để phát tán khi có điều kiện thích hợp.
- Bệnh khô cành (Colletotrichum cloeosporiodes): nấm xâm nhập vào
trên cành thường làm cành khô chết. Trên trái đã già, gần chín, nấm
thường xâm nhập vào những chỗ do trái cọ sát hoặc bị thương tích hoặc do
công trùng chích hút, ăn vỏ quả, làm cho trái bị nhũn (thường là ở phần
cuối trái).
- Bệnh héo rũ: (Verticillium albo – atrum): cây bị nhiễm nấm thường
đột nhiên bị héo lá trên một phần cây hoặc khắp cây. Lá bị chết rất
nhanh, đổi thành vàng nhưng lá khó rụng. Nếu lột vỏ của cành hoặc rễ cây
đã chết sẽ thấy những đường sọc mầu nâu ở phần tiếp giáp vỏ và gỗ. Sau
thời gian vài tháng, mầm non phát sinh trở lại trên những nhánh chưa
chết và trong vòng một hoặc hai năm, cây sẽ sống trở lại bình thường và
không còn triệu chứng gì cả. Nấm tồn tại trong đất và gây bệnh cho nhiều
loại thực vật ở bất cứ tuổi nào. Cây bệnh có thể chết luôn hoặc sống
trở lại, đối với những cây bị bệnh một phần thì phần bệnh không thể cho
trái trong vòng một hoặc hai năm. Thường áp dụng các biện pháp phòng trừ
như sau:
- Dùng thuốc hóa học.
- Cắt xén kỹ khi cây vừa có triệu chứng bệnh, sau khi cây bị bệnh phục hồi, cắt bỏ những nhánh nhỏ, chết.
- Không dùng cành tháp của những cây đã bị bệnh, nên dùng gốc ghép là những giống thuộc chủng Mexico.
- Không nên xen canh hoặc luân canh bơ với các cây họ cà,…
- Không trồng cây trên đất kém thông thoáng, ẩm thấp và úng thuỷ.
V. Thu hoạch và chế biến
Cây ươm hạt bắt đầu có trái sau khi trồng được 5 hoặc 7 năm. Cây tháp
bắt đầu cho trái bói sau khi trồng 1 đến 2 năm, nhưng không nên duy trì
để thu hoạch quả những năm đầu (3 năm trở lại); đến năm thứ 4 chỉ để
một số trái tương xứng với hình vóc của cây; và năm thứ 5 khi tiềm lực
cây đủ cho năng suất thì không tỉa bỏ trái nữa mà chỉ áp dụng cho những
giống có khuynh hướng ra trái quá sức như Booth 8 chẳng hạn.
Sau khi cây trổ hoa được từ 6 -12 tháng thì trái chín, thời gian này
tuỳ theo giống. Năng suất cũng biến thiên rất nhiều theo giống, nhưng
năng suất bình quân thường 8-20 tấn/ha. Việc tiến hành thu hoạch, thời
điểm hái trái sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phẩm chất cũng như điều kiện
bảo quản, vận chuyển. Thông thường dựa vào màu sắc của da, nhưng ở
Califorlia, người ta giám định hàm lượng dầu trong cơm.
Trái bơ có thể bảo quản lạnh hoặc ở nhiệt độ thường. Thông thường các
giống bơ có thể bảo quản lạnh ở nhiệt độ 7 độ C, nhưng những giống
thuộc chủng Antilles phải được bảo quản ở nhiệt độ cao hơn 12 độ C.
Trái bơ được sử dụng bằng nhiều cách, cách giản dị nhất là ăn với
đường, sữa hoặc muối tiêu. Trái bơ còn được dùng như món rau salade hoặc
trộn với rau diếp, đậu, cà chua, tương ớt… Trái bơ còn được cắt ra trộn
vào canh để ăn khi còn nóng rất ngon. Trái bơ không thể để lâu hoặc
đóng hộp được, tuy nhiên người ta còn dùng trái bơ để làm kem.
Trong kỹ nghệ, dầu trái bơ được dùng làm xà phòng hảo hạng và các loại mỹ phẩm cao cấp.